Bài báo khoa họcBảo quản tư liệu Phật giáoNghiên cứu khám phá

BÀN VỀ TÁC GIẢ BỘ SÁCH NGỰ CHẾ THIÊN CƠ DỰ TRIỆU THI

Ngự chế thiên cơ dự triệu thi là bộ ngự chế của vua Minh Mệnh sáng tác. Tuy nhiên, khi vua Minh Mệnh mất thì bộ sách này vẫn chưa được khắc in. Khi vua Thiệu Trị lên ngôi, để tưởng nhớ công đức vua cha đã cho tập hợp các sáng tác của vua Minh Mệnh và cho khắc in. Do đó, bộ sách này nhiều người vẫn lầm tưởng là của Thiệu Trị. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về bộ sách này, chúng tôi nhận thấy đây là thơ của Minh Mệnh. Bộ ngự chế này mặc dù là của Minh Mệnh, song đến nay vẫn chưa được nghiên cứu và giới thiệu. Ngay cả văn bản bộ sách này cũng chưa được phổ biến, hiện nay chỉ mới tìm thấy bộ duy nhất bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV tại Đà Lạt. Vì vậy, chúng tôi xin được giới thiệu bộ sách này đến độc giả quan tâm nghiên cứu.

Vua Minh Mệnh (Ảnh sưu tầm)

Lâu nay khi nghiên cứu về thơ ngự chế của vua Minh Mệnh, các nhà nghiên cứu mới chỉ tập trung khai thác các bài thơ trong Ngự chế thi tập mà chưa có điều kiện để khai thác các văn bản Ngự chế thi khác. Trong quá trình nghiên cứu về thơ vua Minh Mệnh, chúng tôi có tìm thêm được một văn bản Ngự chế thiên cơ dự triệu thi đang lưu trữ và bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV – Đà Lạt.

Đây là văn bản được in trực tiếp từ ván in Mộc bản được chuyển từ Huế lên Đà Lạt năm 1960. Bộ Ngự chế thi này hiện nay vẫn chưa tìm được thêm một bản nào ngoài bản in ở Đà Lạt. Nhận thấy đây là bộ sách quý để nghiên cứu, bổ sung số lượng thơ của vua Minh Mệnh. Chúng tôi bước đầu tiến hành nghiên cứu giới thiệu văn bản này đến độc giả và những ai quan tâm đến thơ vua Minh Mệnh.

Văn bản Ngự chế thiên cơ dự triệu thi là một văn bản có sự kết hợp tiêu đề bài thơ khá lạ. Tác giả đã sử dụng các thiên can để đặt tiêu đề từ 1- 100. Văn bản hoàn chỉnh của bộ sách này gồm 2 quyển thượng và hạ, song bản Ngự chế thiên cơ dự triệu thi  này do bị mất một số trang nên số lượng bài thơ không đủ 200 bài như trong lời tựa và sách Đại Nam thực lục dẫn chứng.

1. Tình hình văn bản xuất xứ và kết cấu

Tình hình văn bản và xuất xứ:

Theo sách Mộc bản triều Nguyễn đề mục tổng quan cho biết Ngự chế thiên cơ dự triệu thi 御製天機預兆詩, kí hiệu H90, sách gồm 2 quyển, 40 tờ, khổ in 19,5×27,5cm.

Trong cuốn Mộc bản triều Nguyễn đề mục tổng quan cho rằng, bộ sách này là sáng tác của Thiệu Trị, tuy nhiên khi đối chiếu với chính sử Đại Nam thực lục thì bộ sách này là của Minh Mệnh được Thiệu Trị cho khắc in sau khi vua cha mất. “聖 製 詩 六 集 文 二 集 天 機 預 兆 詩 集 刊 刻 成,命 內 閣 敬 謹 緗 帙(Thánh chế thi lục tập văn nhị tập Thiên cơ dự triệu thi tập san khắc thành, mệnh Nội các kính cẩn tương dật). Tập thơ thứ 6, tập văn thứ 2 và tập thơ “Thiên cơ dự triệu” của Tiên đế làm ra, đã khắc in xong. Sai Nội các kính cẩn bọc bìa lụa. Cũng theo sách Đại Nam thực lục cho biết: 天 機 預 兆 詩 二 百 篇 Thiên cơ dự triệu thi là tập thơ gồm 200 bài.

Cũng theo sách Đại Nam thực lục cho biết: Thiên cơ dự triệu là tập thơ gồm 200 bài. Đại Nam thực lục  chính biên cho biết: “Tập thơ thứ 6, tập văn thứ 2 và tập thơ “Thiên cơ dự triệu” của Tiên đế làm ra, đã khắc in xong. Sai Nội các kính cẩn bọc bìa lụa. Vua nhân cúng ngày mồng một, dâng các tập tâu ấy lên bàn thờ”.[2, tr 189]

Theo khảo sát của chúng tôi và bài tựa sách cho biết thêm, bộ sách này chia làm 2 quyển: Quyển thượng và quyển hạ. Quyển thượng in mực màu đỏ gồm 100 bài. Quyển hạ in mực đen cũng gồm 100 bài thơ. Tuy nhiên, bộ sách này ở Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV hiện cũng không đầy đủ. Các tờ mất gồm: tờ 11, 12, 17, 18, 21, 22.

Do bị mất 6 tờ nên số bài thơ hiện còn của quyển thượng không đủ 100 bài. Theo thống kê của chúng tôi, quyển thượng chỉ còn: 76 bài, như vậy quyển này thiếu 24 bài.

Quyển hạ,  kí hiệu H90/2, còn lại 20 tờ, thiếu 6 tờ. Các tờ mất gồm: tờ 13, 14, 19, 20, 21, 22.

Do quyển này bị mất 6 tờ nên số bài thơ cũng không đủ 100 bài. Qua thống kê quyển này cũng chỉ còn lại 76 bài, như vậy cũng thiếu 24 bài.

Kết cấu của văn bản:

Kết cấu của văn bản gồm có bài tựa, phần chính văn quyển thượng và quyển hạ, bài bạt của đình thần, không có mục lục các bài thơ như các thi tập khác.

Tuy nhiên, bài bạt mà sách Đại nam thực lục nhắc đến “Còn về tập thơ Thiên cơ dự triệu thì sai các thần là bọn Nguyễn Đình Tân làm bài Bạt.[2, tr 55] đã không còn, có thể do mất ván in trong quá trình bảo quản và di chuyển.

Như vậy nếu như văn bản mà đầy đủ thì kết cấu của sách sẽ là: Bài tựa → quyển thượng  → quyển hạ → bài Bạt.

Cách đặt tên các bài thơ là sự kết hợp của thiên can: Giáp, ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỉ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Đầu tiên là sự kết hợp của thiên can thứ nhất là giáp. Giáp sẽ kết hợp lần lượt với các thiên can khác cho đến hết: 甲甲 , 甲乙 , 甲丙 , 甲丁 , 甲戊 , 甲己 , 甲庚 , 甲辛 , 甲壬 , 甲癸. Sau khi hết vòng như vậy, sẽ đến sự kết hợp của các thiên can khác. Nếu như vậy thì ta sẽ có 10 thiên can x 10 = 100 bài. Con số này đúng như lời bài tựa và sách Đại Nam thực lục đã ghi chép.

Tương tự như ở quyển thượng, quyển hạ cũng được tác giả sắp xếp như bảng trên. Tuy nhiên, do những biến cố lịch sử, tập thơ này vô tình đã bị mất đi 12 tờ. Mỗi một tờ khắc 4 bài thơ, như vậy bộ sách này bị mất 48 bài thơ.

Về tiêu đề bài thơ được đặt theo các thiên can kết hợp với nhau theo chúng tôi cách đặt tiêu đề này chỉ là để đánh số thứ tự của các bài thơ. Ví dụ như Giáp giáp sẽ là bài thơ thứ nhất, Giáp ất là bài thơ thứ hai, Giáp bính sẽ là bài thơ thứ ba…

2. Giới thiệu một số bài thơ trong Ngự chế thiên cơ dự triệu thi

Trong số gần 200 bài thơ hiện còn của văn bản này, chúng tôi xin chọn 10 bài để dịch nghĩa và tìm hiểu khái quát nội dung của thi tập này.

Bài 1:

甲甲

金烏玉兔兩陰陽

侵蝕為災望是祥

箇裏勸君推仔細

憂憂喜喜在行藏
Giáp giáp (quyển thượng)

Kim ô ngọc thố lưỡng âm dương,

Xâm thực vi tai vọng thị tường.

Cá lý khuyến quân suy tử tế,

Ưu ưu hỉ hỉ tại hành tàng.

Dịch nghĩa:

Ngọc thố Kim ô, là âm và dương

Xâm thực là gặp tai họa mong thì là điều tốt.

Khuyên anh như thế suy xét kỹ,

Mừng mừng lo lo ở làm hay ẩn.

Bài 2:

甲乙

虎頭蛇尾不為兇

南北東西應在中

君子小人難兩立

致令艸偃乃因風
Giáp ất (quyển hạ)

Hổ đầu xà vĩ bất vi hung,

Nam bắc đông tây ứng tại trung.

Quân tử tiểu nhân nan lưỡng lập,

Trí linh thảo yển nãi nhân phong.
Dịch nghĩa:

Đầu hổ đuôi rắn chẳng phải là điềm xấu,

Đông tây nam bắc ứng ở giữa.

Người quân tử kẻ tiểu nhân khó đứng cùng nhau,

Khiến cho cỏ rạp xuống vì gió thổi.

Bài 3:

甲己

三更甫曉日升東

喜氣怡怡體上融

不道陰雲天降雨

或逢北颯或春風
Giáp kỉ (quyển hạ)

Tam canh phủ hiểu nhật thăng đông,

Hỉ khí di di thể thượng dung,

Bất đạo âm vân thiên giáng vũ,

Hoặc phùng bắc táp hoặc xuân phong.
Dịch nghĩa:

Canh ba vừa sáng mặt trời mọc ở phía đông,

Không khí vui tươi thân thể hài hòa.

Chẳng quản mây đen trời tuôn nước,

Hoặc gặp gió bấc hoặc gió xuân.

Bài 4:

甲辛

世間百事總浮雲

乃有風吹水作紋

一朵梅花墻內放

遊人來往羨香聞
Giáp tân  (quyển hạ)

Thế gian bách sự tổng phù vân,

Nãi hữu phong xuy thủy tác văn.

Nhất đóa mai hoa tường nội phóng,

Du nhân lai vãng tiển hương văn.
Dịch nghĩa:

Trăm việc trên thế gian chỉ như áng mây nổi,

Vì có gió thổi nước sinh sóng.

Một đóa hoa mai nở bên trong bức tường,

Người qua người lại mến mộ hương.

Bài 5:

乙己

暑往寒來否又通

北風冷冽又春風

勸君不必增憂慮

佇見岐黃已奏功
Ất kỉ (quyển hạ)

Thử vãng hàn lai bỉ hựu thông,

Bắc phong lãnh liệt hựu xuân phong.

Khuyến quân bất tất tăng ưu lự,

Trữ kiến Kỳ Hoàng dĩ tấu công.
Dịch nghĩa:

Nóng qua lạnh tới bế tắc lại hanh thông,

Gió bấc lạnh lẽo lại gió xuân.

Khuyên anh đừng nên thêm lo nghĩ,

Đứng xem thầy thuốc đã tâu công.

Bài 6:

庚丙

年老而悲反是愚

大人不戰乃神巫

塞翁失馬仍得馬

問爾憂無抑喜無
Canh bính (quyển hạ)

Niên lão nhi bi phản thị ngu,

Đại nhân bất chiến nãi thần vu.

Tái Ông thất mã nhưng đắc mã,

Vấn nhĩ ưu vô ức hỉ vô.
Dịch nghĩa:

Tuổi già mà buồn ngược lại là ngu,

Đại nhân không chiến đấu bởi thầy bói thiêng.

Tái ông mất ngựa nhưng được ngựa,

Hỏi ngươi buồn vui có cớ gì.

 Bài 7:

癸庚

雲消雨散復開晴

得失何須著意爭

否後泰來循四序

若容人處是人情
Quý canh (quyển hạ)

Vân tiêu vũ tán phục khai tình,

Đắc thất hà tu trứ ý tranh.

Phủ hậu thái lai tuần tứ tự,

Nhược dung nhân xứ thị nhân tình.
Dịch nghĩa:

Mây tan mưa ngớt trời lại tạnh,

Được mất sao phải ý cạnh tranh.

Sau bỉ thì thái đến theo bốn mùa,

Cũng giống như tha thứ cho người thì hợp tình người.

Bài 8:

巳辛

登雲何故尚徘徊

春信園中滿放梅

垣外十人高下立

金飆一陣動塵埃
Kỉ tân (quyển thượng)

Đăng vân hà cố thượng bồi hồi,

Xuân tín viên trung mãn phóng mai.

Viên ngoại thập nhân cao hạ lập,

Kim tiêu nhất trận động trần ai.
Dịch nghĩa:

Mây đã ùn lên cớ sao lại quẩn quanh

Mai đã nở đầy trong vườn báo tin xuân

Ngoài tường mười người đứng cao thấp

Một trận gió vàng cuốn cả bụi bặm.

Bài 9:

丁壬

花開柳展好良辰

心裏融怡認得真

一陣烏雲天上過

淋漓雨降最愁人
Đinh nhâm (quyển hạ)

Hoa khai liễu triển hảo lương thời,

Tâm lý dung di nhận đắc chân.

Nhất trận ô vân thiên thượng quá,

Lâm li vũ giáng tối sầu nhân.
Dịch nghĩa:

Hoa nở liễu nảy mầm là thời tiết tốt,

Trong lòng vui vẻ nhận ra vẻ chân thật.

Một đám mây đen trên trời đến,

Mưa dầm mưa dề khiến người buồn.

Bài 10:

戊甲

蓮放一湖月一彎

從容看水復看山

無端斑點蛇攔路

三尺難施且暫還
Mậu giáp (quyển hạ)

Liên phóng nhất hồ nguyệt nhất loan,

Thung dung khán thủy phục khán sơn.

Vô đoan ban điểm xà lan lộ,

Tam xích nan thi thả tạm hoàn.
Dịch nghĩa:

Một hồ sen nở một vầng trăng,

Ung dung ngắm nước lại ngắm non.

Bỗng không có chấm loang lổ như rắn chặn đường,

Dẫu có ba thước gươm cũng khó thi thố, hãy tạm trở về.

3. Vài nét về nội dung và nghệ thuật của tập thơ

Ngự chế thiên cơ dự triệu thi là tác phẩm mà vua Minh Mệnh làm thơ để biết được điềm xấu tốt xem xét các hiện tượng thiên nhiên như trăng, sao, khí âm dương, cùng các loài như hổ, rắn, rồng, thỏ… có ảnh hưởng đến mùa màng, đến cuộc sống của nhân dân. Đặc biệt con hổ và con rắn, rồng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.

Mộc bản sách Ngự chế thiên cơ dự triệu thi

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Những bài thơ trong Ngự chế thiên cơ dự triệu thi ngoài việc chiêm nghiệm về các vấn đề tốt xấu của tự nhiên ra thì xen lẫn trong thơ là quan điểm của tác giả về vấn đề đó. Nhiều bài tác giả đã đưa ra quy luật tự nhiên của trời đất như “氣數由來否又亨, 飛龍虎躍妄相爭 Khí số do lai phủ hựu hanh, (Khí số đến tắc rồi lại thông) hay như “雲消雨散復開晴 Vân tiêu vũ tán phục khai tình (Mây tan mưa ngớt trời lại tạnh). 暑往寒來又首年, 春花秋實結綿綿. 雄風一陣何方去, 皮核留來落滿筵. Thử vãng hàn lai hựu thủ niên, xuân hoa thu thực kết miên miên. Hùng phong nhất trận hà phương khứ, Bì hạch lưu lai lạc mãn diên. (Nóng qua lạnh tới lại đầu năm, Xuân thì nở hoa thu thì kết đầy quả. Một trận gió lớn từ đâu tới, Vỏ hạt rơi đầy trong bàn tiệc).

Nhiều bài thơ lại thể hiện nỗi tâm sự của tác giả đối với gia đình và xã hội, đó là tình cảm gia đình hòa thuận, con cháu thảo hiền và mong mỏi mọi người hãy nghĩ đến việc thiện mỗi ngày. “能調琴瑟一家和,子孝孫賢喜氣多. 更得日常開善念, 牛頭鼠尾益榮華 Năng điều cầm sắt nhất gia hòa, Tử hiếu tôn hiền hỉ khí đa. Cánh đắc nhật thường khai thiện niệm, Ngưu đầu thử vĩ ích vinh hoa.(Có thể điều hòa được tiếng đàn thì làm cho nhà được hòa mục, Con hiếu cháu hiền khí nhà vui nhiều. Lại được hàng ngày nghĩ đến làm việc thiện, Đầu trâu đuôi chuột lại thêm sang).

Có bài thơ lại thấy được sự am hiểu về thiên nhiên thời tiết, cũng như là sự điều hòa bản thân mình trong cuộc sống. “一生知爾慣行船, 測水觀風又看天. 羹用鹽梅舟用楫, 食甘寢穩兩皆全   Nhất sinh tri nhĩ quán hành thuyền, Trắc thủy quan phong hựu khán thiên. Canh dụng diêm mai chu dụng tiếp, Thực cam tẩm ổn lưỡng giai toàn.(Một đời biết anh chỉ quen việc đi thuyền, Đo mực nước xem hướng gió lại xem thiên văn. Canh nấu dùng muốn mai thuyền thì dùng mái chèo, Ăn ngon ngủ yên được cả hai).

Có bài thơ lại thể hiện quan điểm bất cần gì vô tư thoải mái không cần cầu thân với nhà khá giả mà lại kết thân với nhà nông, hay không cần dự yến tiệc nhưng vẫn vui vẻ được ăn hai buổi sớm chiều.“可笑冬瓜撞木鐘 , 不親庠序且親農. 鹿鳴宴上雖無預, 但得朝 餐又暮餐   Khả tiếu đông qua tràng mộc chung, Bất thân tường tự thả thân nông. Lộc minh yến thượng tuy vô dự, Đãn đắc triêu xan hựu mộ xan.(Đáng cười tiếng chuông bằng quả bầu, Không thân quyền quý lại thân nông. Yến tiệc tuy rằng không tham dự, Chỉ cần no đủ sáng với chiều ).

Về nghệ thuật, điều đầu tiên đó chính là thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mà tác giả đã vận dụng trong toàn tập thơ. Ngoài ra nghệ thuật sử dụng điển cố rất linh hoạt và khá nhiều trong tập thơ như: Tái ông thất mã (ông lão ở biên ải mất ngựa), lộ phùng xà hổ (trên đường gặp hổ và rắn), lấy điển tích Bất tường (Điềm xấu); Lộc minh (nai kêu) đây là điển lấy trong Kinh thi tiếng nai kêu dùng để chỉ yến tiệc…

4. Thay lời kết

Mặc dù bài viết mới chỉ giới thiệu khái quát về văn bản Ngự chế thiên cơ dự triệu thi của vua Minh Mệnh. Trong đó tập trung đánh giá về văn bản học. Giới thiệu một vài nét về nội dung và phiên âm dịch nghĩa một số bài thơ. Như đã nói ở trên, đây là tập thơ được vua Thiệu Trị cho in sau khi vua Minh Mệnh mất, do đó tập thơ này đã bị hiểu nhầm là của Thiệu Trị. Do đó, bài viết một lần nữa khẳng định tập thơ này là của Minh Mệnh.

Đây cũng là lần đầu tiên tập Ngự chế thiên cơ dự triệu thi được giới thiệu ngay cả nhiều công trình nghiên cứu về thư tịch học cũng chưa từng nhắc đến tác phẩm này. Vì vậy, bài viết cung cấp thêm tư liệu mới để các nhà nghiên cứu khai thác và nghiên cứu sâu hơn nữa về tư tưởng của bộ thi tập này.

Nguyễn Huy Khuyến

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Minh Mệnh, Ngự chế thiên cơ dự triệu thi 御製天機預兆詩, kí hiệu H90, TTLTQGIV.

2. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục ( bản dịch Viện sử học 2007, tập 6), Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

3. Trung tâm Lưu trữ quốc gia II (2004),  Mộc bản triều Nguyễn – Đề mục tổng quan, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

Leave a comment

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Articles

CHÙA LINH ỨNG (CHÙA HÓI)

CHÙA LINH ỨNG (CHÙA HÓI) THÔN CAO DƯƠNG, HUYỆN GIA LỘC, TỈNH...

CHỈNH LÝ TƯ LIỆU KINH SÁCH TẠI CHÙA HÒE NHAI – ( HỒNG PHÚC TỰ )

CHỈNH LÝ TƯ LIỆU KINH SÁCH TẠI CHÙA HÒE NHAI – (...

Tu bổ tài liệu Hán Nôm, kinh điển Phật giáo

Tu bổ tài liệu Hán Nôm, kinh điển Phật giáo và các...

Trung tâm Tư liệu Phật giáo Việt Nam chỉnh lý tư liệu tại chùa Đồng Đắc ( Kim Liên Tự )

Trung tâm Tư liệu Phật giáo Việt Nam chỉnh lý tư liệu...